Hiện nay có hai phương pháp điều trị chính cho bệnh võng mạc ở trẻ sinh non: Thứ nhất là liệu pháp laser, thứ hai là tiêm nội nhãn.Liệu pháp laser là liệu pháp truyền thống, đã được sử dụng 30~40 năm, hiện vẫn là tiêu chuẩn vàng trong điều trị bệnh võng mạc ở trẻ sinh non. Do đó tác dụng lâu dài và các biến chứng liên quan của liệu pháp này đều đã được nghiên cứu rất kỹ lưỡng, hiệu quả cũng rất tốt. Tuy nhiên, nhược điểm ở chỗ “Liệu pháp laser là phương pháp điều trị phá hủy võng mạc”, nghĩa là laser được sử dụng để phá hủy các vùng vô mạch của võng mạc, nhằm giảm thiểu sự sản xuất mạnh của yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu (VEGF). Nhưng phương pháp điều trị này cũng dễ gây ra khiếm khuyết thị trường, tật khúc xạ nặng, cận thị/viễn thị hoặc loạn thị nặng. Ánh sáng không đúng, cận thị nặng, viễn thị hoặc loạn thị, và cũng dễ dẫn đến lác mắt.
Còn về tiêm nội nhãn, đây là phương pháp điều trị khá mới trong 10 năm trở lại đây, thông qua tiêm vào dịch kính một loại thuốc ức chế sự tăng sinh của mạch máu để kiểm soát bệnh. Phương pháp này ít gây tổn thương võng mạc, khiến các mạch máu bất thường thoái triển dần, để các mạch máu bình thường có thể tiếp tục phát triển vào võng mạc ngoại vi, do đó sẽ ít gây ra các biến chứng lâu dài cho mắt. Tuy nhiên, tiêm nội nhãn cũng vẫn tiềm ẩn rủi ro, ví dụ như nguy cơ nhiễm trùng nội nhãn hoặc khả năng kim tiêm làm tổn thương thủy tinh thể hoặc võng mạc.
Hiện nay ở Đài Loan có 3 loại thuốc kháng yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu được sử dụng để tiêm nội nhãn. Tiêm nội nhãn sẽ gây ức chế yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu (VEGF) toàn thân trong thời gian từ 1 tuần đến 3 tháng. Vì yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu (VEGF) có liên quan đến sự phát triển của thần kinh và các cơ quan trong cơ thể, nên cũng có những lo ngại về việc ảnh hưởng đến sự phát triển của hệ thần kinh và cơ quan. Nghiên cứu sơ bộ hiện nay vẫn chưa tìm thấy bằng chứng thực chất về sự ảnh hưởng đó, nhưng vẫn cần theo dõi nghiên cứu lâu dài để xác nhận.
Cả hai phương pháp điều trị nêu trên đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng, kết quả điều trị đều rất tốt, có thể cung cấp cho bác sĩ và bệnh nhân lựa chọn điều trị. Đối với những ca bệnh phức tạp, cũng có thể sử dụng kết hợp cả hai phương pháp để đạt được hiệu quả tốt nhất.
Tuy nhiên, nếu là ca bệnh ở giai đoạn 4 hoặc 5, thì vẫn cần phải điều trị bằng phẫu thuật. Hơn nữa, những trẻ mắc bệnh võng mạc do sinh non cần được theo dõi lâu dài, “đây là căn bệnh suốt đời”, trong tương lai có khả dăng dễ bị các vấn đề như tật khúc xạ, lác nhược thị, cườm nước (thiên đầu thống/tăng nhãn áp), đục thủy tinh thể, bong võng mạc, rách võng mạc, xuất huyết dịch kính,... “tỷ lệ xảy ra sẽ cao hơn người bình thường”. Lúc này cần theo dõi liên tục để áp dụng phương pháp điều trị phù hợp vào thời điểm thích hợp.